Tăng natri máu
Bù thể tích nước lòng mạch và nước tự do
Mục tiêu chính của điều trị là thay thế cả thể tích nội mạch và tình trạng thiếu nước tự do. Uống nước có hiệu quả ở những bệnh nhân tỉnh táo và không có rối loạn chức năng dạ dày ruột. Trong tăng natri máu nặng hoặc bệnh nhân không thể uống vì nôn liên tục hoặc thay đổi ý thức, truyền tĩnh mạch được ưu tiên. Loại dịch truyền tĩnh mạch phụ thuộc vào loại tăng natri máu.
Điều chỉnh trong 24 giờ
Tăng natri máu đã xảy ra trong vòng 24 giờ qua nên điều chỉnh trong 24 giờ tiếp theo. Tuy nhiên, tăng natri máu mạn tính không rõ thời gian nên được điều chỉnh trong 48 giờ, và áp lực thẩm thấu huyết thanh nên giảm với tốc độ không nhanh hơn 0,5 mOsm/L/h để tránh gây phù não bởi quá tải chất hòa tan.
Lượng nước cần thiết
Lượng nước (tính theo lit) cần thiết để bù lượng dịch thiếu có thể tính bằng công thức:
Lượng nước cần thiết = (TBW x (Na huyết thanh hiện tại - Na huyết thanh mục tiêu)) / Na huyết thanh mục tiêu
Trong đó TBW tính bằng lít và được ước tính bằng cách nhân trọng lượng tính bằng kilôgam với 0,6 đối với nam và 0,5 đối với nữ; natri huyết thanh (Na) có thể ở dạng mEq/L hoặc mmol/L. Công thức này giả định tổng hàm lượng natri trong cơ thể không đổi. Ở những bệnh nhân tăng natri máu và thiếu hụt tổng lượng natri cơ thể (vd bệnh nhân có giảm thể tích) nước tự do thiếu hụt có thể lớn hơn so với công thức ước tính.
Điều trị tăng natri máu và quá tải thể tích ECF
Ở những bệnh nhân bị tăng natri máu và quá tải thể tích ECF (tổng hàm lượng natri trong cơ thể vượt quá mức), lượng nước thiếu hụt có thể được thay thế bằng dung dịch dextrose 5% trong nước qua đường tĩnh mạch, có thể bổ sung bằng thuốc lợi tiểu quai. Tuy nhiên, truyền quá nhanh dextrose 5% vào nước có thể gây ra glucos niệu, do đó làm tăng bài tiết nước tự do và tăng trương lực cơ, đặc biệt là ở bệnh nhân bị bệnh tiểu đường. Các chất điện giải khác, bao gồm kali máu, nên được theo dõi và cần điều chỉnh nếu cần.
Điều trị tăng natri máu và thể tích bình thường
Ở những bệnh nhân bị tăng natri máu và thể tích bình thường, nước tự do có thể được thay thế bằng dung dịch dextrose 5% trong nước hoặc nước muối sinh lý 0,45%.
Điều trị bệnh nhân thiếu hụt arginine vasopressin và kháng vasopressin arginine
Điều trị bệnh nhân thiếu hụt arginine vasopressin và kháng vasopressin arginine do mắc phải sẽ được thảo luận ở phần khác trong Cẩm nang.
Điều trị tăng natri máu và giảm thể tích máu
Ở những bệnh nhân tăng natri máu và giảm thể tích máu, đặc biệt là ở những bệnh nhân tiểu đường có hôn mê tăng đường huyết không nhiễm ceton, nước muối sinh lý 0,45% có thể được dùng thay thế cho dạng phối kết hợp của nước muối sinh lý 0,9% và dextrose 5% trong nước để bổ sung natri và nước tự do. Ngoài ra, thể tích dịch ngoại bào và nước tự do có thể bù riêng biệt, sử dụng công thức trước để ước tính lượng nước tự do thiếu hụt. Khi có tình trạng nhiễm toan nặng (pH < 7,10), có thể thêm dung dịch natri bicarbonate vào 5% dextrose trong nước hoặc nước muối sinh lý 0,45%, miễn là dung dịch cuối cùng vẫn còn nhược trương.